Sự cần thiết ban hành Nghị định quy định về đấu giá quyền khai thác khoáng sản

Lĩnh vực địa chất, khoáng sản 30/08/2020

Thực hiện ý kiến chỉ đạo của Phó Thủ tướng Chính phủ Trịnh Đình Dũng và Chương trình xây dựng và ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2020 thuộc phạm vi quản lý nhà nước của Bộ Tài nguyên và Môi trường giao Tổng cục Địa chất và Khoáng sản Việt Nam chủ trì xây dựng Dự thảo “Nghị định Chính phủ quy định về đấu giá quyền khai thác khoáng sản”.

 

Luật Khoáng sản số 60/2010/QH12 được Quốc hội khóa XII ban hành ngày 17 tháng 11 năm 2010 có hiệu lực là một dấu mốc quan trọng trong lĩnh vực địa chất và khoáng sản. Một điểm mới cơ bản của Luật là về nguyên tắc, việc cấp giấy phép khai thác khoáng sản phải thực hiện trên cơ sở đấu giá quyền khai thác khoáng sản nhằm đảm bảo tính công khai, minh bạch, tăng nguồn thu cho ngân sách nhà nước. Theo đó, quy định tại khoản 1 Điều 78 của Luật Khoáng sản là việc triển khai công tác đấu giá quyền khai thác khoáng sản được thực hiện ở cả khu vực chưa thăm dò khoáng sản và khu vực đã có kết quả thăm dò khoáng sản được cơ quan nhà nước có thẩm quyền phê duyệt.

Sau khi Nghị định số 22/2012/NĐ-CP ngày 26 tháng 3 năm 2012 của Chính phủ quy định về đấu giá quyền khai thác khoáng sản có hiệu lực ngày 15/5/2012 (gọi tắt là Nghị định số 22/2012/NĐ-CP) và các văn bản hướng dẫn thi hành Nghị định 22/2012/NĐ-CP được ban hành, Bộ Tài nguyên và Môi trường, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh đã chỉ đạo triển khai ngay công tác đấu giá quyền khai thác khoáng sản. Sau 07 năm triển khai thực hiện, từ năm 2014 đến 2019 (số liệu tính đến ngày 30 tháng 6 năm 2019), Bộ Tài nguyên và Môi trường và các địa phương đã phê duyệt kế hoạch đấu giá với 582 khu vực khoáng sản, trong đó đã đấu giá thành công 304 khu vực (gồm 13 loại khoáng sản) đạt 52,23% kế hoạch. Trong đó: đấu giá tại các khu vực đã có kết quả thăm dò 56 khu vực (chiếm 18,4%), số tiền đạt được là 272,516 tỷ đồng; đấu giá tại các khu vực chưa có kết quả thăm dò 248 khu vực (chiếm 81,6%), số tiền dự tính đạt được là 768,306 tỷ đồng. Tổng giá trị xác định thông qua đấu giá 304 khu vực ước đạt 1.040,823 tỷ đồng; so với tổng giá trị khởi điểm dự tính là 576,504 tỷ đồng tăng 466,210 tỷ đồng (tăng 80,86 % so với giá khởi điểm). Như vậy, thông qua đấu giá quyền khai thác khoáng sản đã tăng thu cho ngân sách nhà nước 466,210  tỷ đồng. Căn cứ vào kết quả đấu giá và kết quả thăm dò sau đấu giá, các địa phương đã cấp phép khai thác khoáng sản 152 mỏ (đạt 50%) và thu về ngân sách nhà nước 354,358 tỷ đồng.

Tuy nhiên, Nghị định số 22/2012/NĐ-CP được ban hành trên cơ sở của Nghị định số 17/2010/NĐ-CP ngày 04 tháng 3 năm 2010 của Chính phủ về bán đấu giá tài sản. Đến nay, Nghị định số 17/2010/NĐ-CP đã hết hiệu lực và được thay thay thế bằng Luật Đấu giá tài sản năm 2016 có hiệu lực từ ngày 01 tháng 7 năm 2017 (Luật Đấu giá tài sản). Theo đó, tại khoản 1 Điều 3 Luật này quy định:

"1. Trường hợp có sự khác nhau giữa quy định về trình tự, thủ tục đấu giá của Luật này và quy định của luật khác thì áp dụng quy định của Luật này, trừ trường hợp quy định tại khoản 2 Điều này.”.

Như vậy, về nguyên tắc trình tự, thủ tục đấu giá quyền khai thác khoáng sản phải tuân thủ quy định của Luật Đấu giá tài sản. Mặt khác, một số quy định về trình tự, thủ tục đấu giá tại Nghị định số 22/2012/NĐ-CP không còn phù hợp, ví dụ như: tiền đặt trước; đối tượng tham gia đấu giá; bán hồ sơ mời tham gia đấu giá; thành lập Hội đồng đấu giá quyền khai thác khoáng sản; công khai danh sách tổ chức, cá nhân được tham gia phiên đấu giá…v.v.

Liên quan đến đấu giá quyền khai thác khoáng sản, qua thực tiễn triển khai các Nghị định quy định chi tiết các nội dung liên quan của Luật Khoáng sản, bao gồm: Nghị định số 158/2016/NĐ-CP ngày 29/11/2016 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Khoáng sản; Nghị định số 67/2019/NĐ-CP ngày 31 tháng 7 năm 2019 của Chính phủ quy định về phương pháp tính, mức thu tiền cấp quyền khai thác khoáng sản; ý kiến phản ánh kiến nghị của Đại biểu Quốc hội, cử tri nhiều địa phương; đề nghị của một số địa phương (như Lạng Sơn, Gia Lai, Bà Rịa - Vũng Tàu, Đắc Nông,…) cũng như kết quả công tác rà soát văn bản quy phạm pháp luật cho thấy còn một số quy định bất cập, chưa phù hợp với thực tế, khó khăn khi áp dụng và cần thiết phải sửa đổi, bổ sung một số điều cấp thiết nhất. Cụ thể: (1) thủ tục cấp phép khai thác khoáng sản làm vật liệu san lấp ở quy mô nhỏ còn phức tạp; (2) hồ sơ đề nghị khai thác khoáng sản ở khu vực có dự án đầu tư xây dựng công trình theo quy định tại khoản 1 Điều 65 Luật Khoáng sản; (3) việc thu hồi, sử dụng khoáng sản dôi dư trong quá trình thi công dự án đầu tư xây dựng công trình quy định tại khoản 2 Điều 64 Luật Khoáng sản; (4) trường hợp hộ gia đình, cá nhân trong quá trình thi công đào ao, san gạt, hạ cốt mặt bằng cải tạo đất phục vụ sản xuất nông nghiệp có phát sinh một khối lượng đất, cát, đá dôi dư là khoáng sản, phải vận chuyển ra khỏi khu vực diện tích đất cải tạo nhưng có thể sử dụng làm vật liệu xây dựng, san lấp công trình - trường hợp này phải cấp phép khai thác khoáng sản, trong khi đó thủ tục cấp phép khai thác khoáng sản hiện nay tương đối phức tạp khi áp dụng cho hộ gia đình, cá nhân cải tạo đất; (5) Quản lý việc tổ chức, cá nhân được phép khai thác khoáng sản thu hồi bã xít (đá xít), bã sàng, đất đá thải làm vật liệu san lấp đồng thời với quá trình khai thác khoáng sản; (6) tạm thu tiền cấp quyền khai thác khi một số thông số trong công thức tính tiền chưa thể xác định; (7) mức thu tiền cấp quyền khai thác khoáng sản (R) đối với đất san lấp, mỏ khoáng sản đa kim.

Về nguyên tắc, các khó khăn vướng mắc nêu trên chỉ được giải quyết triệt để khi Luật Khoáng sản năm 2010 được sửa đổi, bổ sung trong những năm sắp tới. Tuy nhiên, để đáp ứng nhu cầu thực tiễn, trước mắt công tác quản lý nhà nước về khoáng sản cần thiết phải sửa đổi, bổ sung một số điều, khoản của Nghị định số 158/2016/NĐ-CP và Nghị định số 67/2019/NĐ-CP trong nội dung Nghị định thay thế Nghị định số 22/2012/NĐ-CP - trên cơ sở đảm bảo sự phù hợp với Luật Khoáng sản năm 2010.

Ngoài ra, thực hiện kế hoạch rà soát, hệ thống hóa văn bản quy phạm pháp luật năm 2020, Bộ Tài nguyên và Môi trường đã rà soát, hệ thống hóa văn bản quy phạm pháp luật do Bộ chủ trì soạn thảo, theo đó, Bộ đã đề nghị Văn phòng Chính phủ tổng hợp, báo cáo Thủ tướng Chính phủ xem xét, bãi bỏ về các quy định liên quan đến thẩm quyền áp dụng biện pháp khắc phục hậu quả của Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp xã, thanh tra viên chuyên ngành công thương tại 02 Nghị định số 18/2020/NĐ-CP ngày 11 tháng 02 năm 2020 của Chính phủ về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực đo đạc và bản đồ và Nghị định số 36/2020/NĐ-CP ngày 24 tháng 3 năm 2020 của Chính phủ quy định về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực tài nguyên nước và khoáng sản còn chưa phù hợp với quy định của Luật Xử lý vi phạm hành chính. Ngày 18 tháng 9 năm 2020, Văn phòng Chính phủ đã có Văn bản số 7821/VPCP-NN thông báo ý kiến chỉ đạo của Phó Thủ tướng Chính phủ Trịnh Đình Dũng giao Bộ Tài nguyên và Môi trường chủ trì, phối hợp với Bộ Tư pháp và các bộ, cơ quan có liên quan xây dựng văn bản quy phạm pháp luật trình cấp có thẩm quyền xem xét quyết định việc sửa đổi, bổ sung, thay thế, bãi bỏ hoặc đình chỉ việc thi hành văn bản quy phạm pháp luật theo đúng quy định.

Để khắc phục những bất cập, hạn chế nêu trên, việc xây dựng Nghị định thay thế Nghị định số 22/2012/NĐ-CP ngày 26 tháng 3 năm 2012 của Chính phủ quy định về đấu giá quyền khai thác khoáng sản để phù hợp với Luật Đấu giá tài sản và sửa đổi, bổ sung một số điều, khoản của Nghị định số 158/2016/NĐ-CP và Nghị định số 67/2019/NĐ-CP của Chính phủ trong nội dung Nghị định thay thế Nghị định số 22/2012/NĐ-CP để đảm bảo phù hợp với Luật Khoáng sản năm 2010 là cần thiết.