Về đo vẽ bản đồ hiện trạng, mặt cắt hiện trạng: Về cơ bản các đơn vị khai thác khoáng sản đã thực hiện việc đo vẽ bản đồ hiện trạng, mặt cắt hiện trạng khu vực khai thác khoáng sản. Việc đo vẽ phần lớn được thực hiện bởi các đơn vị tư vấn trên cơ sở các nội dung yêu cầu của Thông tư.
Về việc triển khai lắp đặt và lưu trữ hồ sơ sản lượng khoáng sản qua trạm cân: Sau hai năm triển khai thực hiện, đến nay đa số các mỏ khai thác khoáng sản với quy mô từ trung bình đến lớn đã triển khai lắp đặt và đưa vào vận hành trạm cân để thống kê sản lượng khoáng sản vận chuyển từ mỏ tới nơi chế biến hoặc tiêu thụ. Hồ sơ lưu trữ tại trạm cân bao gồm thông tin về phiếu xuất kho, biển kiểm soát xe vận tải, ngày giờ vận chuyển khoáng sản qua trạm cân… Tuy nhiên, với các mỏ khai thác có quy mô nhỏ, điều kiện địa hình phức tạp, nhiều cửa lò, moong khai thác (các mỏ khai thác khoáng sản làm vật liệu xây dựng thông thường, đá khối ốp lát, mỏ khai thác khoáng sản kim loại bằng phương pháp hầm lò…) việc triển khai lắp đặt và đưa vào vận hành trạm cân gặp nhiều khó khăn và đa số các mỏ khai thác có quy mô nhỏ chưa triển khai lắp đặt trạm cân.
Về xác định sản lượng khoáng sản khai thác thực tế: Trên cơ sở điều kiện, đặc điểm khai thác, chế biến khoáng sản, các mỏ thực hiện xác định sản lượng khoáng sản khai thác thực tế trên cơ sở kết quả tổng hợp, tính toán từ các nguồn số liệu (số liệu qua trạm cân, hoá đơn, chứng từ tiêu thụ khoáng sản và nộp thuế tài nguyên, phí bảo vệ môi trường; số liệu tính toán trên cơ sở bản đồ hiện trạng và mặt cắt hiện trạng khu vực khai thác).
Về chứng từ tài chính liên quan: Đa phần các đơn vị khai thác khoáng sản đều thực hiện việc kê khai sản lượng để nộp các khoản thuế, phí của kỳ kê khai theo quy định. Nội dung của các tờ kê khai để tính thuế tài nguyên, phí bảo vệ môi trường là một trong những nguồn giữ liệu để xác định sản lượng khoáng sản khai thác trong kỳ kê khai. Với số liệu là các tờ khai định kỳ gửi cơ quan thuế và báo cáo quyết toán tài chính hàng năm cũng là một trong những nguồn số liệu quan trọng và tin cậy để xác định sản lượng khai thác thực tế hàng năm của các đơn vị.
Nhìn chung, nội dung quy định của các Thông tư đã hình thành hệ thống kiểm soát sản lượng khoáng sản khai thác thực tế tại các đơn vị được cấp phép khai thác; tạo được chuyển biến tích cực trong công tác quản lý hoạt động khoáng sản trên phạm vi cả nước; góp phần xây dựng môi trường khai thác, kinh doanh khoáng sản minh bạch, có kiểm soát; giúp phát hiện và xử lý kịp thời các đơn vị khai thác vượt công suất cho phép, kê khai sản lượng khai thác không đúng thực tế và truy thu đầy đủ các nghĩa vụ tài chính cho ngân sách nhà nước. Qua đó đã nâng cao ý thức chấp hành các quy định của pháp luật đối với các tổ chức, cá nhân có liên quan đến hoạt động khoáng sản.