Trên cơ sở đánh giá một số khó khăn, vướng mắc trong thực tiễn triển khai thi hành Thông tư số 02/2013/TT-BTNMT cho thấy có 06 nhóm nội dung được đề xuất, sửa đổi bổ sung:
Một là, sửa đổi, bổ sung quy định cụ thể về tỷ lệ bản đồ hiện trạng, bản vẽ mặt cắt hiện trạng khu vực được phép khai thác để phù hợp với một số loại hình khoáng sản, đặc biệt là các mỏ khoáng sản kim loại, các mỏ khai thác lộ thiên với quy mô lớn (sửa đổi, bổ sung tại khoản 1 Điều 3).
Hai là, sửa đổi, bổ sung quy định cụ thể về năng lực của đơn vị lập bản đồ hiện trạng, bản vẽ mặt cắt hiện trạng để đảm bảo tính trung thực, chính xác và khách quan của công tác lập bản đồ hiện trạng và tạo thuận lợi cho các đơn vị khai thác tự tổ chức thực hiện (sửa đổi, bổ sung tại khoản 2, khoản 3 Điều 3).
Ba là, sửa đổi quy định về tần suất lập bản đồ hiện trạng, bản vẽ mặt cắt hiện trạng khu vực được phép khai thác khoáng sản phù hợp với các loại hình khoáng sản (khoáng sản rắn, nước khoáng, nước nóng thiên nhiên…), quy mô của mỏ khai thác (sản lượng khai thác của mỏ), điều kiện hoạt động của các mỏ (mỏ hoạt động và mỏ dừng hoạt động) (sửa đổi, bổ sung tại khoản 1 Điều 4).
Bốn là, bổ sung một số quy định về nội dung, hình thức thể hiện trên bản đồ hiện trạng, mặt cắt hiện trạng (các ranh giới khai thác theo năm, các yếu tố địa chất cơ bản…) để đảm bảo đầy đủ, dễ theo dõi, quản lý; bổ sung dẫn chiếu các quy phạm, quy chuẩn kỹ thuật về trắc địa, địa chất, khai thác mỏ áp dụng để các đơn vị có cơ sở thực hiện (sửa đổi, bổ sung tại Điều 5, Điều 6, Điều 9).
Năm là, lược bỏ nội dung giải thích từ ngữ tại Điều 2 về “Trữ lượng địa chất được phép khai thác” (lý do đã được quy định tại Nghị định số 67/2019/NĐ-CP ngày 31 tháng 7 năm 2019 của Chính phủ quy định quy định về phương pháp tính, mức thu tiền cấp quyền khai thác khoáng sản).
Sáu là, lược bỏ Điều 11 về xác định trữ lượng khoáng sản đã khai thác hàng năm (lý do tại Điều 41, Điều 42 và Điều 43 Nghị định số 158/2016/NĐ-CP nêu trên đã quy định về cách thức xác định sản lượng khoáng sản khai thác thực tế).