Quá trình thực hiện Thông tư số 61/2017/TT-BTNMT cho thấy một số bất cập chính như: Quy định về trạm cân kiểm soát sản lượng khai thác chưa phù hợp với thực tế của mỏ (đặc biệt là đối với loại hình khoáng sản cát, mỏ khai thác đá khối làm đá ốp lát và những mỏ có quy mô nhỏ, điều kiện địa hình phức tạp, khai trường phân tán) gây khó khăn cho các đơn vị khai thác khi triển khai thực hiện; quy định về thời gian lưu trữ số liệu đo qua trạm cân, hình ảnh camera qua trạm cân không cụ thể, gây khó khăn cho việc lưu trữ của đợn vị khai thác cũng như việc thanh tra, kiểm tra, giám sát của các cơ quan quản lý nhà nước.
Quy định sản lượng khoáng sản khai thác thực tế là trung bình cộng của các giá trị sản lượng được xác định từ các nguồn số liệu: Bản đồ hiện trạng, số liệu qua trạm cận, tiêu hao nguyên, nhiên liệu và hoá đơn chứng từ không đảm bảo độ chính xác bởi khối lượng khoáng sản khai thác xác định qua việc tiêu hao nguyên, nhiên liệu và thống kê tổng hợp các loại chứng từ sử dụng nguyên, nhiên liệu, vật liệu nổ công nghiệp trong năm tính toán không khả thi (thực tế, tuỳ vào điều kiện địa hình mỏ, công nghệ nổ mìn tại mỏ, khối lượng nổ mìn một đợt thì hệ số nổ mìn, chỉ tiêu tiêu hao thuốc nổ sẽ khác nhau và khác so với chỉ tiêu tính toán trong thiết kế).
Các mẫu biểu thống kê kèm theo Thông tư có nội dung quy định chưa rõ ràng, chưa có sự thống nhất và phù hợp với thực tế sản xuất, tiêu thụ khoáng sản của các đơn vị.
Một số nội dung, thông tin phục vụ cho công tác quản lý nhà nước về khoáng sản chưa quy định trong nội dung các Thông tư: Sổ giám sát hoạt động khai thác khoáng sản,…
Trên cơ sở đánh giá một số khó khăn, vướng mắc trong thực tiễn triển khai Thông tư số 61/2017/TT-BTNMT cho thấy có 03 nhóm nội dung được đề nghị sửa đổi, bổ sung:
Một là, sửa đổi bổ sung quy định về việc lắp đặt trạm cân để kiểm soát sản lượng khai thác cho phù hợp với thực tế của mỏ để tạo điều kiện thuận lợi cho các đơn vị khai thác và phù hợp với điều kiện hạ tầng (sửa đổi, bổ sung tại khoản 2 Điều 3).
Hai là, điều chỉnh quy định về xác định sản lượng khoáng sản khai thác thực tế, cụ thể: (1) Sản lượng khoáng sản khai thác thực tế được lấy theo trung bình cộng của các nguồn số liệu trong trường hợp chênh lệch giữa các nguồn số liệu nhỏ hơn hoặc bằng hệ số tổn thất định mức (tính theo %) xác định trong thiết kế mỏ đã phê duyệt; (2) Sản lượng khoáng sản khai thác thực tế được lấy theo nguồn số liệu có giá trị lớn nhất trong trường hợp chênh lệch giữa các nguồn số liệu lớn hơn hệ số tổn thất định mức (tính theo %) xác định trong thiết kế mỏ đã phê duyệt sau khi đã phân tích, xác định tính hợp lý việc tính toán giữa các nguồn số liệu (sửa đổi, bổ sung tại Điều 7).
Ba là, điều chỉnh các mẫu biểu thống kê kèm theo Thông tư với nội dung quy định rõ ràng, thống nhất và phù hợp với thực tế sản xuất, tiêu thụ khoáng sản của các đơn vị (từ mẫu 01 đến mẫu 06 kèm theo Thông tư).