Cơ sở đề xuất danh mục các chất phân tán được phép sử dụng trên biển Việt Nam

Lĩnh vực biển và hải đảo 30/09/2020

Tại Việt Nam, hiện chưa đưa ra tiêu chuẩn chấp nhận nào cho việc sử dụng chất phân tán (CPT) trong ứng phó sự cố tràn dầu trên biển cũng như chưa có một thử nghiệm nào được cơ quan nhà nước có thẩm quyền xác nhận.

Trên thế giới, chất phân tán (CPT) đã được nghiên cứu và thử nghiệm trong vòng 30 năm qua. Lần đầu CPT được sử dụng dưới dạng một chất tẩy rửa trong vụ tràn dầu Torrey Canyon năm 1967 tại vịnh Persian ở nước Anh. Các nhà khoa học Anh lại có quan điểm cho rằng việc phân tán dầu là một biện pháp ứng phó có căn cứ và hợp lý. Tuy nhiên, chất hóa học được sử dụng trong vụ tràn dầu Torrey Canyon quá độc hại, lại không đủ hiệu quả và không được sử dụng đúng cách do thiếu sự hướng dẫn cũng như các quy tắc sử dụng chất hóa học một cách hiệu quả. Những khuyết điểm này đã được giải quyết trong hàng loạt sự phát triển vài năm sau sự cố này. Một số nước khác cũng bắt đầu xây dựng các quy tắc sử dụng CPT điển hình như Na Uy. Năm 2002, Na Uy đã ra một quy chế về sử dụng CPT trong đó yêu cầu phải xem xét tới các hậu quả môi trường trong các kịch bản sử dụng CPT. Giữa những năm 1970, việc sử dụng CPT như một biện pháp chiến lược để ứng phó với sự cố tràn dầu trên biển đã được chấp nhận tại Anh và nhiều nước trên khắp thế giới.

Tổ chức Hàng hải quốc tế (IMO) có đưa ra một Tài liệu năm 1995 về “Hướng dẫn sử dụng Chất phân tán dầu tràn có xét đến đánh giá tác động môi trường” đã đưa ra một chương trình khung rất tốt trong đó có xem xét các yếu tố môi trường (IMO/UNEP, 1995). Tuy nhiên, những tài liệu này cần phải được phân tích cụ thể đối với từng yếu tố môi trường đại diện cho từng vùng.

Một số nước đã ban hành quy định về việc sử dụng CPT như: Thái Lan, Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc, Liên Bang Nga, Singapore, Ấn Độ, Úc, Mỹ, EU.

Mỗi quốc gia đều đưa ra các biện pháp kiểm soát sử dụng trong việc ứng cứu sự cố dầu tràn nhằm đảm bảo các phương pháp ứng cứu không đe dọa và gây nguy hại đến môi trường sinh thái biển. Do đó, tại các quốc gia đều phát triển các quy định cho việc sử dụng CPT khác nhau. Một số nước như Phần Lan, Thổ Nhĩ Kỳ, Slovenia và Thụy Điển cấm sử dụng CPT do đó không có tiêu chuẩn cho CPT. Một số nước vẫn cho phép sử dụng, tuy nhiên không có yêu cầu và tiêu chuẩn riêng. Một số nước trong khối EU chấp nhận CPT đã được phê duyệt sử dụng ở các nước cùng khối EU khác. Đa số các nước lớn đều có hướng dẫn tiêu chuẩn cho phép sử dụng CPT riêng biệt. Trong số này, các nước ở cùng khối NOWPAP (Trung tâm Hoạt động khu vực của Kế hoạch hành động Tây Bắc Thái Bình Dương) gồm Trung Quốc, Hàn Quốc, Nhật Bản, Nga đưa ra cácMỗi quốc gia đều đưa ra các biện pháp kiểm soát sử dụng trong việc ứng cứu sự cố dầu tràn nhằm đảm bảo các phương pháp ứng cứu không đe dọa và gây nguy hại đến môi trường sinh thái biển. Do đó, tại các quốc gia đều phát triển các quy định cho việc sử dụng CPT khác nhau. Một số nước như Phần Lan, Thổ Nhĩ Kỳ, Slovenia và Thụy Điển cấm sử dụng CPT do đó không có tiêu chuẩn cho CPT. Một số nước vẫn cho phép sử dụng, tuy nhiên không có yêu cầu và tiêu chuẩn riêng. Một số nước trong khối EU chấp nhận CPT đã được phê duyệt sử dụng ở các nước cùng khối EU khác. Đa số các nước lớn đều có hướng dẫn tiêu chuẩn cho phép sử dụng CPT riêng biệt. Trong số này, các nước ở cùng khối NOWPAP (Trung tâm Hoạt động khu vực của Kế hoạch hành động Tây Bắc Thái Bình Dương) gồm Trung Quốc, Hàn Quốc, Nhật Bản, Nga đưa ra các tiêu chuẩn cho CPT khá giống nhau, ngoại trừ loài thử nghiệm độ độc có điều chỉnh khác nhau nhằm phù hợp với điều kiện của từng nước.tiêu chuẩn cho CPT khá giống nhau, ngoại trừ loài thử nghiệm độ độc có điều chỉnh khác nhau nhằm phù hợp với điều kiện của từng nước.

Quy trình phê duyệt sử dụng CPT ở các nước thường yêu cầu nhà cung cấp gửi CPT cho chính phủ hoặc phòng thí nghiệm được chỉ định để tiến hành thử nghiệm làm căn cứ phê duyệt sử dụng. Các thí nghiệm tiến hành trên CPT nhằm đảm bảo: CPT đạt được mức hiệu quả phân tán cho phép; - CPT phải có độ độc đủ thấp để không đe dọa hay gây nguy hại đến môi trường biển; CPT phải có khả năng phân rã sinh học. 

Ngoài ra một số quy trình phê duyệt sử dụng CPT còn yêu cầu thêm: CPT có một số đặc tính vật lý phù hợp và an toàn cho việc lưu trữ hoặc sử dụng; CPT không chứa một số thành phần nguy hại.

Tại Việt Nam, hiện chưa có quy định về danh mục chất phân tán và quy trình sử dụng chất phân tán trong ứng phó sự cố tràn dầu trên biển Việt Nam. CPT theo từng trường hợp đã được Bộ Khoa học Công nghệ Môi trường (nay là Bộ Tài nguyên Môi trường) phê duyệt cho phép sử dụng tại Việt Nam, bao gồm: Seacare OSD, Enersperse 1037, Seagreen 805, Shell VDC, SD25. Hiện nay, có 3 đơn vị lưu trữ CPT dầu để phục vụ cho việc ứng phó sự cố tràn dầu: Tập đoàn Dầu khí Quốc gia Việt Nam (PVD Offshore), Công ty dầu khí Nhật Việt JVPC và VietsoPetro VSP. Trong đó, PVD Offshore là đơn vị dịch vụ thực hiện việc ứng cứu sự cố tràn dầu cho một số khách hàng trong nước, VietsoPetro và Công ty dầu khí Nhật Việt JVPC là các công ty khai thác dầu khí trực tiếp và tự lưu trữ CPT để phục vụ ứng cứu sự cố cho quá trình khai thác tại các mỏ.

Theo kết quả khảo sát, hiện nay các CPT dự trữ phổ biến tại Việt Nam là: Superdispersant-25 (SD-25) và Seagreen 805. CPT hiện được dự trữ nhiều nhất cho công tác ứng phó sự cố tràn dầu là SD-25. Kho của PVD Offshore tại Vũng Tàu dự trữ khoảng 2 m3 SD-25, kho chứa trên các giàn khoan và tàu FPSO ngoài khơi của PVD Offshore có khoảng 25m3 SD-25 để dùng trong các trường hợp khẩn cấp khi có dầu tràn theo nhu cầu của các nhà thầu khai thác dầu khí. VSP dự trữ khoảng 13 m3 SD-25 tại kho căn cứ dịch vụ trên bờ và 4m3 CPT được chứa trong các tàu dịch vụ cho trường hợp ứng cứu tình huống khẩn cấp.

Ngoài ra, công ty JVPC dự trữ khoảng 5 m3 CPT Seagreen 805 trên giàn, tàu FSO và tàu trực ngoài khơi khi ứng cứu khẩn cấp. Tổng lượng CPT được các nhà thầu lớn đang hoạt động khai thác dầu khí ở nước ta hiện nay tồn trữ khoảng 45 m3 để phục vụ cho kế hoạch ƯPSCTD của mình. CPT được nhập ngoại thông qua các cơ sở cung cấp hóa chất có giấy phép nhập CPT của Bộ Tài nguyên và Môi trường.

Hiện nay, tổ chức quan hệ đối tác quản lý môi trường các biển Đông Á (PEMSEA) đã xây dựng danh mục các chất phân tán dự kiến sử dụng cho vùng biển Vịnh Thái Lan giữa 3 nước Việt Nam, Campuchia và Thái Lan, danh mục đề xuất gồm 44 chất.

Tại Việt Nam, Viện Nghiên cứu biển và hải đảo trực thuộc Tổng cục Biển và Hải đảo Việt Nam đã thực hiện Dự án “Nghiên cứu, xây dựng quy trình sử dụng chất phân tán (Dispersant) trên biển Việt Nam”. Kết quả của Dự án có đưa ra được danh mục các CPT đề xuất sử dụng trên biển Việt Nam và quy trình sử dụng chất phân tán trên biển Việt Nam. Danh mục này gồm 5 chất, là các chất đang được sử dụng thông dụng trên thế giới tuy nhiên Dự án không có thử nghiệm đối với từng chất. Tuy nhiên, khi đưa ra danh mục các chất này Viện cũng đã kiến nghị “Cần chú trọng việc đánh giá tác động môi trường và giám sát môi trường sau khi sử dụng chất phân tán vì hiện nay chưa có các thí nghiệm đánh giá tác động của chất phân tán lên các loài sinh vật biển Việt Nam”.

Ngoài ra, Viện Dầu khí Việt Nam thuộc Tập đoàn Dầu khí Quốc gia Việt Nam đã thực hiện Đề tài “Nghiên cứu xây dựng Dự thảo quy chuẩn kỹ thuật Quốc gia quy định điều kiện cho phép sử dụng CPT tại Việt Nam phục vụ công tác ứng phó sự cố tràn dầu”. Kết quả của Đề tài đã đưa ra các yêu cầu kỹ thuật cần kiểm soát trong điều kiện Việt Nam nhằm đảm bảo chất phân tán dầu được phê duyệt cho phép sử dụng phải đạt được mức hiệu quả nhất định trên dầu thô Việt Nam và không gây thêm ảnh hưởng xấu đến môi trường và hệ sinh thái. Bên cạnh đó, Đề tài cũng đưa ra được danh mục CPT kiến nghị sử dụng trong ứng phó sự cố tràn dầu tại Việt Nam bao gồm 10 CPT, và đã được thử nghiệm trong phòng thí nghiệm về hiệu quả chất phân tán; Độ độc cấp tính trên tảo biển Skeletonema costatum, ấu trùng tôm sú Penaeus monodon; Khả năng phân rã sinh học hiếu khí của CPT sau 28 ngày.

Như vậy, tại Việt Nam chưa đưa ra tiêu chuẩn chấp nhận nào cho việc sử dụng chất phân tán trong ứng phó sự cố tràn dầu trên biển cũng như chưa có một thử nghiệm nào được cơ quan nhà nước có thẩm quyền xác nhận. 

Từ thực tiễn cần có danh mục chất phân tán được phép sử dụng trong công tác khắc phục và giải quyết hậu quả sự cố tràn dầu trên biển Việt Nam, cơ quan chủ trì đã nghiên cứu kinh nghiệm quốc tế về các yêu cầu kỹ thuật của các chất phân tán được phép sử dụng trong ứng phó sự cố tràn dầu trên biển. Trên cơ sở các yêu cầu kỹ thuật mà các cpt cần đáp ứng sẽ đối chiếu với kết quả thử nghiệm của Viện Dầu khí Việt Nam thuộc Tập đoàn Dầu khí Quốc gia Việt Nam. Bên cạnh đó, đơn vị chủ trì cũng rà soát các cpt đã từng được cấp phép tại Việt Nam để đưa ra danh mục cpt phù hợp nhất trong thời điểm hiện tại.