Việt Nam là một trong các quốc gia thuộc khu vực Châu Á Thái Bình Dương có tiềm năng khai thác thuỷ sản trên biển. Với bờ biển dài trên 3.260 km, diện tích các vùng biển trên 1 triệu km vuông, có khoảng 4.000 hòn đảo, đá lớn nhỏ. Ngành Thuỷ sản Việt Nam và hoạt động nuôi trồng thủy sản trên biển trong những năm gần đây có nhiều thành công, trở thành Ngành kinh tế mũi nhọn, đóng góp lớn trong giá trị kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam. Tổng diện tích tiềm năng nuôi trồng hải sản trên biển của nước ta khoảng 500.000 ha. Trong đó, diện tích nuôi vùng bãi triều ven biển 153.300 ha; diện tích nuôi vùng vũng, vịnh, eo ngách và ven đảo là 79.790 ha; nuôi vùng biển xa bờ 100.000 ha, diện tích còn lại phục vụ nuôi khác. Năm 2019 tổng sản lượng thủy sản đạt 8.200,8 nghìn tấn, giá trị xuất khẩu thủy sản đạt trên 8,578 tỷ USD.
Nuôi biển đang là xu hướng phát triển chung trên thế giới. So với chăn nuôi động vật trên cạn, nuôi thủy sản được đánh giá cao hơn nhiều về hiệu quả kinh tế, môi trường.v.v. Về kinh tế, nuôi thủy sản có năng suất cao hơn so với nuôi gia súc, gia cầm, nhờ hệ số chuyển đổi thức ăn (FCR) thấp hơn. Về môi trường, nuôi thủy sản không gây tác hại nhiều tới môi trường như gia súc, gia cầm…Chính vì vậy, phát triển nuôi trồng thủy hải sản đang là xu hướng chung trên toàn cầu nhằm đáp ứng nhu cầu tiêu thụ của người dân. Tuy nhiên, nguồn nước ngọt và đất đai canh tác đang có xu hướng thu hẹp lại. Do đó, nuôi biển đang được nhiều quốc gia đẩy mạnh.
Thực hiện pháp luật về thủy sản, pháp luật về đất đai, trong những năm vừa qua, nhiều tổ chức, cá nhân đã được Ủy ban nhân dân cấp tỉnh, Ủy ban nhân dân cấp huyện có biển quyết định giao đất có mặt nước ven biển, mặt nước biển, ký hợp đồng cho thuê đất có mặt nước ven biển, cho thuê mặt nước biển (sau đây gọi chung là khu vực biển) có phạm vi nằm ngoài đường mép nước biển thấp nhất trung bình trong nhiều năm để nuôi trồng thủy sản.
Thực hiện Nghị quyết số 36-NQ/TW nêu trên, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đang chủ trì xây dựng Đề án phát triển nuôi biển đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045. Do đó trong thời gian tới, hoạt động sử dụng khu vực biển, nhu cầu giao khu vực biển để nuôi biển của các tổ chức, cá nhân ngày càng phát triển và đã xuất hiện nhu cầu được thế chấp khu vực biển tại các tổ chức tín dụng để vay vốn đầu tư phát triển sản xuất; xuất hiện nhu cầu cho thuê khu vực biển; góp vốn, chuyển nhượng quyền sử dụng khu vực biển và tài sản gắn liền với khu vực biển được giao giữa các tổ chức, cá nhân đã được Luật Thủy sản quy định và cần có quy định để hướng dẫn, thực hiện và kịp thời điều chỉnh các quan hệ xã hội này.
Trong quá trình triển khai thực hiện các nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng an ninh trên một số khu vực biển, các cơ quan nhà nước phải thu hồi diện tích khu vực biển đã được Ủy ban nhân dân cấp tỉnh, Ủy ban nhân dân cấp huyện có biển giao, cho thuê cần có sự bồi thường thiệt hại cho các tổ chức, cá nhân và cần có quy định, hướng dẫn cụ thể về hình thức, đối tượng, mức bồi thường, hỗ trợ, trình tự thủ tục và thẩm quyền thực hiện để bảo đảm quyền lợi của tổ chức, cá nhân theo đúng quy định của pháp luật. Ban soạn thảo, Tổ biên tập đã tiến hành nghiên cứu, đánh giá kết quả thực hiện hoạt động góp vốn, thế chấp mặt nước biển để nuôi trồng thủy sản theo quy định của Luật Thủy sản năm 2003, xây dựng dự thảo, họp thảo luận nhiều nội dung liên quan đến dự thảo Nghị định.
Cơ quan chủ trì soạn thảo đã tiến hành điều tra, khảo sát, đánh giá tình hình bồi thường, hỗ trợ khi nhà nước thu hồi đất có mặt nước ven biển, mặt nước biển tại một số tỉnh, thành phố có biển đại diện cho một số khu vực gồm: Hải Phòng, Đà Nẵng, Bình Thuận, Kiên Giang.