Xử lý một số khó khăn, vướng mắc về thu hồi, giao đất, cho thuê đất, chuyển mục đích sử dụng đất

Lĩnh vực đất đai 27/08/2020

Bộ Tài nguyên và Môi trường có ý kiến đối với đề nghị của Ủy ban nhân dân tỉnh Thừa Thiên Huế về thu hồi đất, giao đất, cho thuê đất, chuyển mục đích sử dụng đất.

 

UBND tỉnh đề nghị: (1) Cho phép quy định mức giá trần trong thương thảo để có cơ sở thực hiện giải phóng mặt bằng, cưỡng chế thu hồi đất theo mức giá trần đối với các hộ dân còn lại. (2) Đối với các dự án đã thực hiện bồi thường trên phần diện tích lớn (khoảng 70%-80% tổng diện tích dự án) cho phép thực hiện cưỡng chế thu hồi đất đối với các hộ dân không thống nhất thương thảo theo mức giá trần. (3) Cho phép bán chỉ định đất tái định cư cho chủ đầu tư thực hiện dự án, giao đất chỉ định với đất nghĩa trang, đất tôn giáo, tín ngưỡng cho các trường hợp ảnh hưởng phạm vi dự án đầu tư có sử dụng đất theo giá đất thị trường. (4) Cho phép người dân thực hiện theo hình thức trả lại đất nói trên để đẩy nhanh tiến độ dự án.

Về kiến nghị này, Bộ TN&MT trả lời như sau:

Thứ nhất, pháp luật về đất đai không quy định về mức giá trần để áp dụng giải phóng mặt bằng, cưỡng chế thu hồi đất đối với phần diện tích mà nhà đầu tư không tự thỏa thuận được với những hộ dân. Việc thỏa thuận giữa nhà đầu tư và người sử dụng đất để tạo lập mặt bằng thực hiện dự án đầu tư được thực hiện theo quy định của pháp luật về dân sự. Nhà đầu tư và người sử dụng đất tự thương thảo về giá đất khi thực hiện giao dịch dân sự, các bên có thể thuê tư vấn xác định giá đất cụ thể theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 115 Luật Đất đai.

Thứ hai, pháp luật về đất đai không quy định việc Nhà nước thực hiện cưỡng chế thu hồi đất đối với các hộ dân không thống nhất thương thảo theo mức giá trần thỏa thuận nhận chuyển nhượng, thuê quyền sử dụng đất, nhận góp vốn bằng quyền sử dụng đất của chủ đầu tư để thực hiện dự án theo quy định tại Điều 73 Luật Đất đai.

Thứ ba, pháp luật về đất đai hiện hành chỉ quy định việc bố trí tái định cư đối với các trường hợp khi Nhà nước thu hồi đất thuộc quy định tại Điều 61, 62 Luật Đất đai (khoản 3 Điều 26 Luật Đất đai). Nhà nước không thực hiện việc bố trí tái định cư đối với các trường hợp nhà đầu tư tự thỏa thuận với người sử dụng đất theo quy định tại Điều 73 Luật Đất đai. Để có quỹ đất ở và quỹ nhà ở bố trí cho người bị ảnh hưởng của dự án, chủ đầu tư có trách nhiệm tự tạo lập thông qua việc nhận chuyển nhượng trên thị trường. Việc giao đất sử dụng vào mục đích đất nghĩa trang, đất cơ sở tôn giáo thực hiện theo quy định tại Điều 54 và khoản 2 Điều 118 Luật Đất đai.

Thứ tư, việc trả lại đất của người sử dụng đất đề nghị thực hiện theo quy định tại Điều 65 và điểm b khoản 2 Điều 68 của Luật Đất đai, Điều 65 Nghị định số 43/2014/NĐ-CP ngày 15 tháng 5 năm 2014 của Chính phủ và khoản 2 Điều 4 Nghị định số 01/2017/NĐ-CP ngày 06 tháng 01 năm 2017 của Chính phủ.