Ảnh minh họa
Luật Tài nguyên nước được Quốc hội khóa thông qua và có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01/01/2013 đã có một điểm mới quan trọng là thu tiền cấp quyền khai thác tài nguyên nước. Tiền cấp quyền khai thác tài nguyên nước quy định trong Luật Tài nguyên nước được xây dựng với chủ trương cụ thể hóa quan điểm tài nguyên nước là tài sản của nhà nước, thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước đại diện chủ sở hữu, người khai thác, sử dụng tài sản của Nhà nước cần phải nộp tiền để bảo đảm công bằng trong việc khai thác, sử dụng tài nguyên nước và nâng cao ý thức sử dụng tiết kiệm, hiệu quả các nguồn nước. Như vậy, quyền khai thác tài nguyên nước được định giá bằng tiền và được coi như là quyền tài sản. Tiền cấp quyền khai thác tài nguyên nước khác với thuế tài nguyên nước, phí và lệ phí cấp giấy phép khai thác, sử dụng tài nguyên nước. Đó là khoản thu của chủ sở hữu khi cho các chủ thể khác sử dụng tài sản của mình tương tự như khoáng sản, đất đai. Hơn nữa, việc thu tiền cấp quyền khai thác tài nguyên nước góp phần nâng cao ý thức và trách nhiệm của tổ chức, cá nhân trong khai thác, sử dụng nước tiết kiệm, hiệu quả và bảo đảm công bằng trong việc sử dụng tài sản của Nhà nước.
Tại Điều 65 Luật Tài nguyên nước quy định: tổ chức, cá nhân khai thác tài nguyên nước phải nộp tiền cấp quyền khai thác tài nguyên nước trong các trường hợp sau đây: Khai thác nước để phát điện có mục đích thương mại; Khai thác nước để phục vụ hoạt động kinh doanh, dịch vụ, sản xuất phi nông nghiệp; Khai thác nước dưới đất để trồng cây công nghiệp, chăn nuôi gia súc, nuôi trồng thủy sản tập trung với quy mô lớn; Tiền cấp quyền khai thác tài nguyên nước được xác định căn cứ vào chất lượng của nguồn nước, loại nguồn nước, điều kiện khai thác, quy mô, thời gian khai thác, mục đích sử dụng nước.
Cũng tại Điều này, Luật Tài nguyên nước đã giao Chính phủ quy định cụ thể các trường hợp khai thác tài nguyên nước phải nộp tiền cấp quyền khai thác tài nguyên nước, phương pháp tính, mức thu tiền cấp quyền khai thác tài nguyên nước. Cụ thể hóa quy định này, tại Điều 40 Nghị định số 201/2013/NĐ-CP ngày 27 tháng 11 năm 2013 của Chính phủ đã quy định về các trường hợp phải nộp tiền cấp quyền khai thác tài nguyên nước.
Để triển khai hiệu quả các quy định về việc thu tiền cấp quyền khai thác tài nguyên nước, vừa bảo đảm khuyến khích tổ chức, cá nhân khai thác, sử dụng nước tiết kiệm, hiệu quả, bảo vệ được nguồn nước khai thác, vừa bảo đảm được an sinh xã hội và bổ sung cho một số hoạt động bảo vệ nguồn nước, ngày 17/7/2017, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 82/2017/NĐ-CP quy định về phương pháp tính, mức thu tiền cấp quyền khai thác tài nguyên nước. Sau ba năm thực hiện Nghị định số 82/2017NĐ-CP, công tác quản lý nhà nước về tài nguyên nước tiếp tục được tăng cường hiệu lực, hiệu quả; ý thức trách nhiệm trong khai thác, sử dụng tài nguyên nước tiết kiệm, hiệu quả của người dân được nâng cao. Theo số liệu báo cáo của các tỉnh và số liệu thống kê của Bộ Tài nguyên và Môi trường thì tính đến ngày 9/4/2020, Bộ Tài nguyên và Môi trường đã phê duyệt được 593 Quyết định cấp quyền khai thác tài nguyên nước với tổng số tiền 9.494,4 tỷ đồng; Các tỉnh đã phê duyệt được trên 3.300 Quyết định cấp quyền khai thác tài nguyên nước với tổng số tiền trên 637 tỷ đồng. Tuy nhiên, sau khi Nghị định số 82 được ban hành đã phát sinh nhiều vướng mắc đòi hỏi phải sửa đổi, bổ sung Nghị định nêu trên, cụ thể như sau:
Một là, vướng mắc do thay đổi quy định của pháp luật. Từ khi Nghị định 82 có hiệu lực đến nay đã có nhiều văn bản quy phạm pháp luật đã được ban hành mới hoặc sửa đổi, bổ sung, do đó, một số quy định của Nghị định hiện không còn phù hợp như: các quy định về quy hoạch tài nguyên nước tại Điều 2 và Phụ lục II của Nghị định không phù hợp với quy định của Luật Quy hoạch, Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của 37 Luật có liên quan đến quy hoạch; các quy định về thời hạn nộp hồ sơ khai thuế, địa điểm nộp hồ sơ khai thuế (trong đó có tiền cấp quyền khai thác tài nguyên nước), về thời hạn nộp tiền cấp quyền khai thác tài nguyên nước của cơ quan thuế, về mẫu thông báo nộp tiền cấp quyền khai thác tài nguyên nước hiện đã được giao Chính phủ hướng dẫn tại Nghị định quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Quản lý thuế số 38/2019/QH14; quy định về hệ số nguồn nước khai thác có liên quan đến vùng hạn chế khai thác nước dưới đất hiện không còn phù hợp với quy định tại Nghị định số 167/2018/NĐ-CP ngày 26 tháng 12 năm 2018 của Chính phủ quy định việc hạn chế khai thác nước dưới đất...
Hai là, vướng mắc từ thực tiễn triển khai thi hành Nghị định. Qua thực tiễn 03 năm triển khai thi hành Nghị định với hơn 140 văn bản của các Bộ, ngành, địa phương và doanh nghiệp đã cho thấy nhiều quy định của Nghị định hiện không còn phù hợp với thực tiễn hoặc có những vướng mắc và đề nghị tháo gỡ như: các quy định về đối tượng nộp tiền, nhiều địa phương, doanh nghiệp đề nghị làm rõ các đối tượng không phải nộp tiền cấp quyền khai thác tài nguyên nước để thống nhất áp dụng trên phạm vi cả nước; căn cứ tính tiền trên cơ sở tầng chứa nước khai thác là chưa phù hợp vì nhiều công trình khai thác ở 2 tầng chứa nước khác nhau; giá tính tiền chưa làm rõ thời điểm áp dụng giá tính tiền cấp quyền khai thác tài nguyên nước và lúng túng trong việc áp dụng giá tính tiền khi chiếu sang các quy định về tính thuế tài nguyên đối với nước thiên nhiên nên chưa có sự thống nhất trên cả nước; nhiều công trình cấp nước tập trung còn lúng túng trong xác định tỷ lệ cấp nước cho các mục đích; điều chỉnh tiền cấp quyền khai thác tài nguyên nước còn có nhiều điểm chưa phù hợp; nhiều công trình bị hỏng không khai thác được nhưng khi điều chỉnh thì tiền cấp quyền lại tăng lên; chưa có quy định về thời điểm áp dụng giá tính tiền đối với trường hợp truy thu tiền; ... (các vướng mắc cụ thể được nêu chi tiết trong Báo cáo Kết quả rà soát, đánh giá việc thực hiện các quy định về phương pháp tính, mức thu tiền cấp quyền khai thác tài nguyên nước được gửi kèm theo).
Ba là, một số nội dung liên quan đến việc kê khai, tính, phê duyệt và thu nộp tiền cấp quyền khai thác tài nguyên nước đã xảy ra trên thực tế nhưng chưa hướng dẫn cụ thể như việc phân chia tiền cấp quyền khai thác tài nguyên nước giữa các địa phương nơi có công trình khai thác nước và hồ chứa; quy định về gia nhiệt cho sản phẩm vẫn được xác định mức thu cao như đối với trường hợp sản xuất, trong khi đó, gia nhiệt là loại hình khai thác, sử dụng nước không tiêu hao, giống làm mát máy, tạo hơi tức là sử dụng nước sau quá trình sản xuất để làm tăng nhiệt độ của sản phẩm và do đó sẽ giảm nhiệt độ của nước trước khi xả trả lại nguồn nước. Vì vậy, địa phương đã đề nghị bổ sung gia nhiệt để bảo đảm tính công bằng giữa các loại hình sử dụng nước. Ngoài ra, mẫu quyết định phê duyệt tiền cấp quyền khai thác tài nguyên nước chưa có mã số thuế nên khó khăn cho cơ quan thuế trong việc xác định doanh nghiệp nộp tiền cấp quyền khai thác tài nguyên nước.
Với những lý do nêu trên, việc xây dựng để ban hành Nghị định sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 82/2017/NĐ-CP là cần thiết.
Nghị định được xây dựng trên quan điểm, nguyên tắc xây dựng sau: Bảo đảm sự phù hợp, đồng bộ và thống nhất với Tài nguyên nước và các quy định pháp luật khác có liên quan; kế thừa, giữ lại những quy định còn phù hợp, khắc phục những nội dung chồng chéo, mâu thuẫn và những vấn đề vướng mắc phát sinh về mặt pháp lý trong thực tiễn áp dụng các quy định của Nghị định số 82; quy định đảm bảo không ảnh hưởng tới tổ chức, cá nhân trong việc thu, nộp tiền cấp quyền khai thác tài nguyên nước; quy định rõ về giá tính tiền cấp quyền khai thác tài nguyên nước phù hợp với khung giá tính thuế tài nguyên đối với nước thiên nhiên nhưng đảm bảo tính thống nhất trong cả nước; bảo đảm tính khả thi, thuận lợi cho các ngành, các cấp, các cơ quan và lực lượng thực thi pháp luật; nâng cao ý thức sử dụng nước tiết kiệm, hiệu quả của các tổ chức cá nhân có hoạt động khai thác, sử dụng tài nguyên nước.
Quá trình soạn thảo dự thảo Nghị định sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 82 đã được Bộ Tài nguyên và Môi trường triển khai thực hiện đúng trình tự, thủ tục theo quy định của Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật. Bộ đã phối hợp với các địa phương tiến hành đánh giá hơn hai năm thực hiện Nghị định số 82/2017/NĐ-CP để xác định những nội dung còn bất cập, khó thực hiện trong thực tế, những vấn đề phát sinh trong quy định của pháp luật về tài nguyên nước, pháp luật quan để xác định nội dung cần sửa đổi, bổ sung. Đồng thời tổ chức nhiều cuộc hội thảo, tọa đàm để các nhà quản lý, các doanh nghiệp trao đổi, thảo luận và góp ý hoàn thiện cho các dự thảo nêu trên.