Xác định trữ lượng tính tiền cấp quyền khai thác khoáng sản đối với các Giấy phép khai thác cấp trước ngày Nghị định số 203/2013/NĐ-CP có hiệu lực

Địa chất và Khoáng sản 21/10/2019

Hiện nay các doanh nghiệp được cấp phép khai thác khoáng sản trước ngày 20/01/2014 (ngày Nghị định 203/2013/NĐ-CP có hiệu lực) đang được tính thu tiền cấp quyền khai thác khoáng sản theo trữ lượng địa chất, không tính theo trữ lượng được cấp phép khai thác. Điều này dẫn tới sự bất bình đẳng trong cạnh tranh giữa các doanh nghiệp được cấp phép trước ngày Nghị định 203/2013/NĐ-CP có hiệu lực, vì cách tính tiền cấp quyền khai thác khoáng sản thiếu thống nhất. Doanh nghiệp được cấp phép trước ngày Nghị định 203/2013/NĐ-CP có hiệu lực muốn xác định lại tiền cấp quyền phải thực hiện thăm dò đánh giá lại trữ lượng để xác định lại trữ lượng được cấp phép khai thác. Quy định này càng gây khó khăn và tốn kém cho doanh nghiệp khi phải thực hiện lại thủ tục này.

Sau khi Nghị định số 203/2013/NĐ-CP ngày 28/11/2013 của Chính phủ quy định về phương pháp tính và mức thu tiền cấp quyền khai thác khoáng sản, về trữ lượng tính tiền cấp quyền khai thác khoáng sản có một số địa phương hiểu chưa thống nhất như cử tri đã phản ánh.

Để khắc phục bất cập nêu trên, tại khoản 6 Điều 2 Nghị định số 158/2016/NĐ-CP ngày 29/11/2016 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật khoáng sản đã giải thích từ ngữ và làm rõ khái niệm “trữ lượng tính tiền cấp quyền khai thác khoáng sản là trữ lượng được phép đưa vào thiết kế khai thác” để thống nhất cách hiểu.

Mặt khác, để giải quyết những bất cập như cử tri đã nêu, Bộ Tài nguyên và Môi trường đã xây dựng và trình Chính phủ ban hành Nghị định số 67/2019/NĐ-CP ngày 30/7/2019 quy định phương pháp tính, mức thu tiền cấp quyền khai thác khoáng sản để thay thế Nghị định số 203/2013/NĐ-CP nêu trên. Theo đó, Nghị định số 67/2019/NĐ-CP đã quy định cụ thể việc xác định trữ lượng tính tiền cấp quyền khai thác khoáng sản đối với các Giấy phép khai thác cấp trước ngày Nghị định số 203/2013/NĐ-CP có hiệu lực.