Sự cần thiết thực hiện Chương trình KH&CN bảo vệ môi trường, sử dụng hợp lý tài nguyên, ứng phó biến đổi khí hậu để thực hiện mục tiêu phát triển bền vững giai đoạn 2021 – 2025

Tin tức - Sự kiện 08/09/2020

Chương trình được đề xuất nhằm thực hiện Nghị quyết số 24-NQ/TW của Ban chấp hành Trung ương Khóa XI về chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu (BĐKH), tăng cường quản lý tài nguyên và bảo vệ môi trường; Nghị quyết số 08/NQ-CP của Chính phủ ban hành Chương trình hành động của Chính phủ thực hiện Nghị quyết; Kết luận số 56-KL/TW ngày 23/8/2019 của Bộ Chính trị về việc tiếp tục thực hiện Nghị quyết số 24-NQ/TW; Chỉ thị số 42-CT/TW ngày 24/03/2020 của Ban Bí thư về việc tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác phòng ngừa, ứng phó, khắc phục hậu quả thiên tai.

Trên thế giới phát triển bền vững, tăng trưởng xanh trở thành xu hướng chủ đạo, được nhiều nước coi là quốc sách. Thế giới đang hướng tới kỷ nguyên sinh thái, năng lượng tái tạo, năng lượng mới được nhiều nước chú trọng phát triển, có khả năng thay thế dần nhiên liệu hóa thạch.

Suy thoái đất, hoang mạc hóa diễn tiến nhanh hơn. Tài nguyên khoáng sản ngày càng khan hiếm và đắt giá. Nhiều nơi trên thế giới thiếu nước nghiêm trọng; xung đột, bất ổn trong việc chia sẻ nguồn nước gia tăng. Biển và đại dương ngày càng bị ô nhiễm; tranh chấp, xung đột giữa các quốc gia về tài nguyên biển ngày càng gay gắt. Chất lượng môi trường suy giảm, nhiều nơi ô nhiễm nghiêm trọng. Rừng tiếp tục bị suy giảm mạnh, các hệ sinh thái tự nhiên bị thu hẹp diện tích. Nhiều loài hoang dã bị tuyệt chủng hoặc bị đe dọa tuyệt chủng ở mức cao.

Ở trong nước, sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước tiếp tục được đẩy mạnh hướng tới mục tiêu đưa nước ta về cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại vào năm 2020 nên nhu cầu khai thác, sử dụng các nguồn tài nguyên tăng mạnh. Cơ cấu kinh tế đang được chuyển dịch tích cực theo hướng hiện đại, nhiều ngành hàng, mặt hàng đã tìm được chỗ đứng trên thế giới. Chuyển đổi mô hình tăng trưởng, tái cấu trúc các ngành kinh tế sẽ được thúc đẩy, hệ thống hạ tầng được quan tâm đầu tư, thể chế được hoàn thiện, nguồn nhân lực phát triển một bước.

Nước biển dâng, sụt lún vùng ven biển do khai thác nước ngầm quá mức, ảnh hưởng từ các hoạt động khai thác nước trên thượng nguồn các sông quốc tế làm cho triều cường, ngập lụt, xâm nhập mặn (XNM) diễn ra mạnh hơn, nhất là ở Thành phố Hồ Chí Minh, Cần Thơ, ĐBSCL, đồng bằng sông Hồng và một số địa phương ven biển khác. Thiên tai như bão lũ, hạn hán diễn biến thất thường, cực đoan hơn. Tài nguyên tiếp tục bị khai thác mạnh hơn, nhất là tài nguyên không tái tạo. Các nguồn nhiên liệu hóa thạch như than, dầu khí có xu hướng giảm dần. Đất đô thị, khu công nghiệp, hạ tầng, phát triển cây công nghiệp, nuôi trồng thuỷ sản tăng nhanh; nhiều vùng đất bị thoái hoá, bạc màu, hoang mạc hoá gây nên áp lực lớn lên đất canh tác nông nghiệp, đất rừng. Nhu cầu về nước tăng mạnh, Tây Nguyên, Tây Bắc, ĐBSCL và một số địa phương ven biển đối mặt với tình trạng thiếu nước gay gắt vào mùa khô; an ninh về nước tiếp tục bị chi phối mạnh bởi hoạt động của các quốc gia thượng nguồn sông quốc tế. Độ che phủ của rừng tiếp tục tăng nhưng chậm lại, chất lượng rừng tiếp tục suy giảm. Ô nhiễm môi trường diễn ra trên diện rộng, vẫn trong xu thế tăng  nhưng chậm hơn, có thể được kiểm soát, đảo chiều trong một vài thập kỷ tới.

Để giải quyết những vấn đề cấp thiết nêu trên của ngành tài nguyên và môi trường, trong thời gian qua Đảng, Chính phủ đã ban hành các Nghị quyết, Kết luận, Quyết định phê duyệt kế hoạch hành động và các chương trình, đề án thuộc lĩnh vực tài nguyên và môi trường cụ thể như sau:

Nghị quyết 24-NQ/TW ngày 03/06/2013 của Ban Chấp hành TƯ Đảng về chủ động ứng phó với BĐKH, tăng cường quản lý tài nguyên bảo vệ môi trường

Nghị quyết tập trung vào 05 nhóm nhiệm vụ, giải pháp:

Một là, nghiên cứu cơ sở khoa học đối với những vấn đề cơ bản được đưa ra trong Nghị quyết 24/NQ-TW của Ban Chấp hành trung ương Đảng về chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu, tăng cường quản lý tài nguyên và bảo vệ môi trường, tập trung: 

Nghiên cứu cơ sở khoa học và thực tiễn mối quan hệ giữa biến đổi khí hậu, ảnh hưởng tới tài nguyên và môi trường đưa ra các giải pháp quản lý thích hợp cho các vùng: Đồng bằng sông Cửu Long; miền Trung và Tây Nguyên; Đồng bằng sông Hồng; miền núi phía Bắc).

Nghiên cứu cơ sở khoa học và thực tiễn chuyển đổi cơ cấu kinh tế  sang nền kinh tế xanh phù hợp với thực tiễn của Việt Nam.

Nghiên cứu cơ sở khoa học và thực tiễn phân vùng chức năng dựa trên đặc tính sinh thái  phục vụ công tác quản lý nhằm thích ứng với biến đổi khí hậu, quản lý hiệu quả tài nguyên và bảo vệ môi trường.

Quản lý tổng hợp tài nguyên, môi trường.

Thích ứng với biến đổi khí hậu dựa trên hệ sinh thái …..

Hai là, nghiên cứu ứng dụng, phát triển và hoàn thiện các mô hình dự báo phù hợp với điều kiện Việt Nam phục vụ việc ứng phó với biến đổi khí hậu, quản lý tài nguyên và bảo vệ môi trường.

Nghiên cứu, phát triển mô hình dự báo tổng thể tác động của biến đổi khí hậu đến phát triển kinh tế - xã hội và tài nguyên, môi trường phù hợp với điều kiện Việt Nam;

Ứng dụng, nâng cao độ chính xác của các mô hình dự báo biến động tài nguyên dưới tác động của biến đổi khí hậu;

Ứng dụng, nâng cao độ chính xác của các mô hình dự báo biến động chất lượng môi trường dưới tác động của biến đổi khí hậu;

Ứng dụng, nghiên cứu phát triển nhằm nâng cao độ chính xác các mô hình dự báo trung hạn và dài hạn về khí tượng, thủy văn trong điều kiện biến đổi khí hậu;

Ứng dụng, nghiên cứu phát triển nhằm nâng cao độ chính xác các mô hình dự báo, cảnh báo trung hạn và dài hạn về thiên tai (bão, lũ, hạn hán, động đất, sóng thần, sạt lở, sa mạc hóa…) trong điều kiện biến đổi khí hậu;

Ứng dụng hệ thống thông tin địa lý GIS và viễn thám trong xây dựng các mô hình;

Phát triển, cập nhật các kịch bản biến đổi khí hậu

Nghiên cứu phát triển và ứng dụng mô hình đánh giá, định lượng dịch vụ của các hệ sinh thái đặc thù (đất ngập nước, rừng kín thường xanh, nông nghiệp).

Đánh giá khả năng hấp thụ khí nhà kính của các hệ sinh thái đặc thù của Việt Nam.

Ba là, nghiên cứu ứng dụng, phát triển, hoàn thiện các giải pháp kỹ thuật-công nghệ phù hợp với điều kiện Việt Nam để phục vụ ứng phó biến đổi khí hậu, quản lý tài nguyên và bảo vệ môi trường.

Nghiên cứu, phát triển và ứng dụng các giải pháp công nghệ giảm nhẹ phát thải khí nhà kính phù hợp với điều kiện Việt Nam trong từng ngành, lĩnh vực (nông nghiệp, công nghiệp, giao thông vận tải, xây dựng)

Nghiên cứu, phát triển và ứng dụng các giải pháp công nghệ để chủ động thích ứng với biến đổi khí hậu trong các ngành, lĩnh vực (nông nghiệp, công nghiệp, xây dựng, giao thông vận tải); chú trọng các giải pháp về thủy lợi để phòng, chống, hạn chế các tác động của triều cường, ngập lụt, xâm nhập mặn do nước biển dâng, đặc biệt là ở các đô thị phía Nam như TP Hồ Chí Minh, Cần Thơ, Cà Mau.

Nghiên cứu ứng dụng, phát triển và cải tiến các giải pháp công nghệ-kỹ thuật phù hợp với điều kiện Việt Nam để thúc đẩy hoạt động điều tra cơ bản tài nguyên (tập trung vào khoáng sản sâu trong lòng đất; tài nguyên biển)

Nghiên cứu ứng dụng, phát triển và hoàn thiện các giải pháp kỹ thuật - công nghệ bảo vệ tài nguyên (tập trung vào các loại khoáng sản chưa khai thác; phòng chống hoang mạc hóa, sa mạc hóa, thoái hóa đất nông nghiệp; phòng chống suy giảm, cạn kiệt tài nguyên nước; kiểm soát hoạt động khai thác nguồn lợi thủy, hải sản); làm tăng giá trị của tài nguyên (chế biến sâu khoáng sản xuất khẩu; bổ cập nước ngầm) và phát triển các loại vật liệu, năng lượng mới, năng lượng tái tạo.

Nghiên cứu ứng dụng và phát triển các giải pháp kỹ thuật-công nghệ để phòng ngừa, kiểm soát, ngăn chặn ô nhiễm môi trường (các công nghệ giảm thiểu, tái sử dụng, tái chế, thu hồi năng lượng từ chất thải; các công nghệ xử lý chất thải, hạn chế chôn lấp phù hợp với điều kiện Việt Nam)

Nghiên cứu ứng dụng, phát triển và hoàn thiện các giải pháp kỹ thuật-công nghệ phục hồi môi trường các khu vực bị ô nhiễm, suy thoái (tập trung cho các hồ ao kênh mương trong các đô thị; các điểm tồn lưu thuốc bảo vệ thực vật; các khu vực ô  nhiễm đioxin; các khu vực khai thác khoáng sản; rà soát bom mìn; các khu vực trồng rừng ngập mặn; các hệ sinh thái bị ô nhiễm);

Các giải pháp kỹ thuật - công nghệ về cung cấp nước sạch và cải thiện chất lượng môi trường.

Các giải pháp kỹ thuật-công nghệ về bảo tồn các loài động thực vật, nguồn gien.

Các giải pháp kỹ thuật - công nghệ kiểm soát an toàn sinh vật biến đổi gien, sinh vật ngoại lai xâm hại.

Bốn là, nghiên cứu, đề xuất các chính sách, cơ chế, công cụ, biện pháp, mô hình mới phục vụ công tác quản lý trong ứng phó với biến đổi khí hậu, quản lý tài nguyên và bảo vệ môi trường.

Nghiên cứu các vấn đề về hoàn thiện thể chế, cơ chế chính sách trong ứng phó với biến đổi khí hậu, tăng cường quản lý tài nguyên và bảo vệ môi trường (xác lập các công cụ thị trường; bộ chỉ tiêu giám sát tăng trưởng xanh, kinh tế xanh cấp quốc gia và cấp địa phương; kiện toàn tổ chức bộ máy, sử dụng hiệu quả các nguồn lực; cơ chế phối hợp liên ngành, liên vùng, cơ chế chính sách khuyến khích xã hội hóa, cơ chế để nhân dân giám sát; xây dựng hệ thống cơ sở dữ liệu, thông tin; cơ chế giải quyết tranh chấp, xung đột)

Nghiên cứu, đề xuất các cơ chế, chính sách, công cụ, biện pháp về thúc đẩy các hoạt động giảm nhẹ phát thải khí nhà kính phù hợp với điều kiện Việt Nam (cơ chế quản lý các hành động giảm nhẹ phù hợp với điều kiện quốc gia - NAMA; kế hoạch giảm nhẹ phát thải khí nhà kính cho ngành, lĩnh vực, địa phương; phát triển thị trường trao đổi tín chỉ các-bon; cơ chế bù giá đối với các dự án phát triển năng lượng tái tạo, tái chế chất thải, năng lượng từ chất thải;  lộ trình xóa bỏ trợ giá đối với nhiên liệu hóa thạch)

Xây dựng các định hướng chiến lược quản lý, khai thác, sử dụng bền vững tài nguyên thiên nhiên đến năm 2030, tầm nhìn năm 2050 (khoáng sản; tài nguyên nước; năng lượng tái tạo; thủy - hải sản; đất đai).

Nghiên cứu các vấn đề liên quan đến cơ chế, chính sách phát triển kinh tế tài nguyên (định giá, lượng giá, hạch toán tài tài nguyên; tăng nguồn thu từ khai thác, sử dụng tài nguyên… đối với đất đai, khoáng sản, tài nguyên nước, rừng, không gian biển)

Nghiên cứu, đề xuất các cơ chế, chính sách, mô hình, biện pháp thúc đẩy khai thác, sử dụng hiệu quả tài nguyên (hợp thửa đất trong sản xuất nông nghiệp; khai thác đất trung du phục vụ cho phát triển phi nông nghiệp; tích nước, điều hòa, sử dụng tổng hợp tài nguyên nước)

Nghiên cứu, đề xuất các cơ chế, chính sách, mô hình, biện pháp thúc đẩy phát triển tài nguyên, vật liệu mới, năng lượng mới; mở rộng, nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế trong quản lý, bảo vệ, khai thác, sử dụng tài nguyên nước và nguồn nước liên quốc gia.

Nghiên cứu, đề xuất các cơ chế, chính sách, mô hình, biện pháp về tăng cường công tác phòng ngừa, kiểm soát các nguồn gây ô nhiễm; quản lý, tái chế, thu hồi năng lượng từ chất thải; phục hồi ô nhiễm, suy thoái môi trường; bảo tồn thiên nhiên và đa dạng sinh học (đề xuất danh mục các loại hình công nghệ sản xuất gây hại đến tài nguyên, môi trường cấm nhập khẩu; cơ chế quản lý môi trường theo từng loại hình và mức độ tác động đến môi trường đối với các cơ sở sản xuất kinh doanh; cơ chế phát triển các các khu bảo tồn thiên nhiên do tư nhân quản lý).

Năm là, tăng cường năng lực nghiên cứu khoa học, phát triển công nghệ, dự báo vĩ mô, phân tích chính sách công (bao gồm cơ sở vật chất kỹ thuật và nguồn nhân lực) về ứng phó với biến đổi khí hậu, quản lý tài nguyên và bảo vệ môi trường.

- Nghiên cứu biện pháp nhằm tăng cường, đổi mới công tác tuyên truyền, giáo dục, nâng cao nhận thức cho xã hội trong việc chủ động ứng phó biến đổi khí hậu, đẩy mạnh công tác quản lý tài nguyên và bảo vệ môi trường (tập trung ba đối tượng: lãnh đạo, các cấp học bậc học, cộng đồng dân cư và doanh  nghiệp).

- Nghiên cứu, chuyển giao và áp dụng các công nghệ mới, các trang thiết bị, hạ tầng kỹ thuật phục vụ cho công tác ứng phó biến đổi khí hậu, tăng cường quản lý tài nguyên và bảo vệ môi trường (tập trung ba/các nội dung: Công nghệ mới, năng lực con người và các trang thiết bị hạ tầng kỹ thuật, năng lực đánh giá chính sách công, phân tích đánh giá chính sách công, dự báo vĩ mô về tài nguyên và môi trường).

- Xây dựng cơ sở dữ liệu đầy đủ, chính xác và cập nhật thường xuyên  cho công tác quản lý thích ứng biến đổi khí hậu, tăng cường quản lý hiệu quả tài nguyên và bảo vệ môi trường.

Kết luận số 56-KL/TW trị ngày 23 tháng 8 năm 2019 của Bộ Chính về việc tiếp tục thực hiện Nghị quyết số 24-NQ/TW ngày 03/6/2013 của Ban chấp hành Trung ương Khóa XI về chủ động ứng phó với BĐKH, tăng cường quản lý tài nguyên và bảo vệ môi trường.

Nhiệm vụ và giải pháp:

Một là, nâng cao nhận thức và ý thức trách nhiệm về chủ động phòng, chống thiên tai, ứng phó với BĐKH, tăng cường quản lý tài nguyên và bảo vệ môi trường

Tiếp tục chú trọng công tác tuyên truyền, giáo dục, tạo sự thống nhất trong toàn xã hội về nhận thức hành động trước tác động của BĐKH, thiên tai cực đoan, suy thoái tài nguyên thiên nhiên, ô nhiễm môi trường gia tăng, đang trở thành nguy cơ đe dọa nghiêm trọng sức khỏe, đời sống nhân dân, sự phát triển bền vững của đất nước;

Cần đặt yêu cầu về phòng, chống thiên tai, ứng phó với BĐKH, quản lý tài nguyên và bảo vệ môi trường ở vị trí trung tâm của các quyết định phát triển; môi trường không chỉ là không gian sinh tồn cho con người, mà còn tạo điều kiện, nền tảng, yếu tố tiên quyết cho phát triển kinh tế xã hội bền vững. Không đánh đổi môi trường lấy tăng trưởng kinh tế; thực hiện sàng lọc, lựa chọn đầu tư phát triển dựa trên các tiêu chí về môi trường. Bảo đảm hài hòa lợi ích, tạo động lực khuyến khích các bên liên quan tích cực tham gia công tác ứng phó với BĐKH, quản lý, khai thác, sử dụng có hiệu quả tài nguyên và bảo vệ môi trường.

Hai là, hoàn thiện hệ thống pháp luật, cơ chế, chính sách về ứng phó với BĐKH, quản lý tài nguyên và bảo vệ môi trường

Nghiên cứu xây dựng, hoàn thiện pháp luật về ứng phó với BĐKH; sửa đổi, bổ sung Luật Đất đai năm 2013, Luật Khoáng sản năm 2010, Luật Phòng, chống thiên tai năm 2013, Luật Đê điều năm 2006, Luật Bảo vệ môi trường năm 2014, Luật Sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả năm 2010... theo hướng khắc phục các chồng chéo, xung đột phát luật, bảo đảm sự thống nhất, đồng bộ của hệ thống pháp luật về ứng phó với BĐKH, quản lý tài nguyên và bảo vệ môi trường, bổ sung các quy định mới nhằm tạo môi trường pháp lý đầy đủ, khả thi, thuận lợi cho việc thực hiện các nhiệm vụ liên quan.

Khẩn trương thể chế hóa và triển khai thực hiện Kết luận số 36-KL/TW của Bộ Chính trị về đẩy mạnh thực hiện Nghị quyết Trung ương 6 khóa XI về tiếp tục đổi mới chính sách pháp luật đất đai trong thời kỳ đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới, tạo nền tảng để đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại. Rà soát, bổ sung và đẩy mạnh thực hiện Chiến lược quốc gia về tăng trưởng xanh thời kỳ 2011-2020 và tầm nhìn đến 2045; Chiến lược về ứng phó với BĐKH; Chiến lược quốc gia về phòng, chống thiên tai; Chiến lược bảo vệ môi trường quốc gia đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030; hoàn thiện cơ chế để thực hiện minh bạch hóa trong quản lý, khai thác, sử dụng tài nguyên khoáng sản và tài nguyên nước.

Điều chỉnh quy hoạch, kế hoạch phát triển của các ngành và địa phương, hạn chế tối đa các ngành, lĩnh vực sản xuất, kinh doanh, các dự án phát triển kinh tế sử dụng lãng phí, khai thác không hiệu quả tài nguyên thiên nhiên, phát thải nhiều chất ô nhiễm, KNK, hủy hoại cảnh quan, sinh thái, gây ô nhiễm môi trường, gia tăng rủi ro thiên tai, nhất là vùng đầu nguồn nước, khu dân cư, vùng ven biển.

Tăng cường, nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế, tranh thủ nguồn lực của cộng đồng quốc tế trong việc ứng phó với BĐKH.

Ba là, nâng cao năng lực, hiệu quả thanh tra, kiểm tra, xử lý vi phạm

Tăng cường thanh tra, kiểm tra, xử lý vi phạm pháp luật, đấu tranh phòng, chống tội phạm về tài nguyên, môi trường; kết hợp xử lý hành chính, hình sự với áp dụng công cụ kinh tế, thị trường để bảo đảm thực hiện hiệu quả các chính sách, pháp luật về ứng phó với BĐKH, phòng, chống thiên tai và quản lý tài nguyên, bảo vệ môi trường.

Rà soát, điều chỉnh các quy định xử lý vi phạm theo hướng nâng cao hơn mức xử phạt, đảm bảo đủ sức răn đe. Quy định rõ về cơ chế môi trường, bảo hiểm rủi ro thiên tai, quy định mức trách nhiệm tối thiểu đối với từng đối tượng.

Bốn là, một số nhiệm vụ cấp bách

Tiếp tục cập nhật, cụ thể hóa “Kịch bản BĐKH, nước biển dâng” của cả nước và đến từng vùng, miền, địa phương. Lựa chọn các hạng mục, giải pháp ưu tiên để lồng ghép triển khai thực hiện. Khẩn trương hoàn thành các công trình chống ngập đang thi công ở Thành phố Hồ Chí Minh; bổ sung các giải pháp dần hình thành hệ thống chống ngập đồng bộ, hiệu quả. Triển khai các giải pháp chống ngập cho vùng lõi thành phố Cần Thơ. Đầu tư hoàn thiện và nâng cấp hệ thống đê biển, các công trình chống sạt lở ven sông, ven biển, nhất là ở ĐBSCL. Rà soát, hỗ trợ di dời dân ra khỏi các vùng có nguy cơ cao sạt lở bờ sông, bờ biển, sạt lở núi, lũ quét và các nguy cơ thiên tai khác. Tiếp tục đầu tư, bảo đảm an toàn các hồ chứa nước; phát triển thủy lợi, nâng cao khả năng tưới, tiêu nước cho các vùng thường xuyên bị hạn hán, úng ngập nặng, nhất là ở Nam Trung Bộ và Tây Nguyên.

Hoàn thành việc điều tra và xây dựng bản đồ tài nguyên nước mặt và nước ngầm. Có cơ chế, chính sách phù hợp để nâng cao hiệu quả sử dụng nước, ngăn chặn xu hướng suy giảm tài nguyên nước. Tích cực đàm phán, hợp tác với các quốc gia thượng nguồn để bảo vệ và sử dụng có hiệu quả tài nguyên nước ở lưu vực các dòng sông xuyên biên giới, nhất là sông Mê Kông và sông Hồng. Có chính sách khuyến khích áp dụng trên diện rộng các giải pháp sử dụng tiết kiệm nước ngọt. Chấn chỉnh việc khai thác cát sỏi trên phạm vi cả nước.

Tiếp tục tăng cường quản lý, bảo vệ rừng tự nhiên, nghiên cứu cơ chế cho phép kết hợp khai thác các giá trị kinh tế của rừng để góp phần giảm nghèo, phát triển KTXH các địa phương có rừng.

Quy định tiêu chí môi trường, quy chuẩn kỹ thuật về lựa chọn, quyết định đầu tư phát triển. Điều chỉnh cơ chế chấp thuận, quy trình, hình thức đánh giá tác động môi trường đối với các dự án phát triển kinh tế. Phân vùng theo mức độ ô nhiễm môi trường để có biện pháp quản lý chất lượng môi trường sống, sinh thái và cảnh quan.

Tăng cường các biện pháp phòng ngừa, kiểm soát đối với các dự án đầu tư, cơ sở sản sản xuất có nguy cơ gây ô nhiễm môi trường. Có chính sách hạn chế sản xuất, nhập khẩu và sử dụng đồ nhựa có tính năng sử dụng một lần trên toàn quốc. Không nhập khẩu máy móc, thiết bị, phương tiện đã qua sử dụng tiềm ẩn các chất nguy hại, gây ô nhiễm.

Tập trung xử lý ô nhiễm môi trường, phấn đấu từ sau năm 2020 chất lượng môi trường được cải thiện năm sau cao hơn năm trước, nhất là ở các đô thị, thành phố lớn. Khắc phục ngay tình trạng ô nhiễm không khí, nguồn nước thải tại thành phố Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh. Chú trọng bảo vệ môi trường nông thôn, trọng điểm là các làng nghề, khu vực chăn nuôi tập trung.

Thực hiện phân loại các chất thải tại nguồn, nhất là rác thải sinh hoạt. Tăng cường năng lực thu gom, thúc đẩy tái sử dụng, tái chế chất thải, hạn chế tối đa việc chôn lấp rác thải. Tập trung xử lý chất thải độc hại, chất thải y tế. Có chính sách phù hợp để khuyến khích mạnh mẽ hơn các doanh nghiệp đầu tư xử lý chất thải rắn, nước thải. Xử lý triệt để tình trạng ô nhiễm tại khu vực lân cận bức xúc, khiếu kiện do ô nhiễm bãi thải gây ra. Tăng cường năng lực quan trắc, giám sát, cảnh báo ô nhiễm môi trường. Thực hiện các cam kết quốc tế về giảm phát thải KNK. Tăng cường hệ thống quản lý nhà nước về bảo vệ môi trường ở Trung ương, địa phương và đẩy mạnh quản trị môi trường trong các doanh nghiệp.

Chiến lược khai thác, sử dụng bền vững tài nguyên và bảo vệ môi trường biển đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030 được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt tại Quyết định số 1570/QĐ-TTg ngày 06 tháng 9 năm 2013

Nội dung quyết định đã yêu cầu đẩy mạnh nghiên cứu khoa học, ứng dụng công nghệ cao trong điều tra cơ bản, khai thác, sử dụng tài nguyên, bảo vệ môi trường biển, hải đảo:

Chú trọng xây dựng đội ngũ cán bộ khoa học về biển, đặc biệt là khoa học về quản lý tổng hợp và thống nhất biển. Trong giai đoạn đầu cần chú trọng khai thác, huy động đội ngũ cán bộ khoa học trên các lĩnh vực có liên quan tham gia lĩnh vực này. Nghiên cứu cơ cấu lại các tổ chức khoa học và công nghệ về biển sử dụng ngân sách nhà nước cho phù hợp, đáp ứng yêu cầu phục vụ việc thiết lập và vận hành cơ chế quản lý tổng hợp và thống nhất biển, đáp ứng yêu cầu của công tác điều tra cơ bản, dự báo, thông báo sớm về động đất, cảnh báo sóng thần, thiên tai trên biển, tác động của BĐKH lên các hệ sinh thái, cộng đồng dân cư ven biển.

Nhà nước dành tỷ lệ kinh phí thỏa đáng, đáp ứng yêu cầu nghiên cứu phục vụ nhu cầu điều tra, nghiên cứu tìm hiểu về biển, khai thác, sử dụng bền vững tài nguyên, bảo vệ môi trường, đặc biệt là quản lý tổng hợp và thống nhất biển trên cơ sở tiếp cận hệ thống, theo chương trình, có trọng tâm, trọng điểm đạt hiệu quả cao.

Đầu tư nâng cấp hạ tầng kỹ thuật, thiết bị, đổi mới, hiện đại hóa, tự động hóa thiết bị điều tra cơ bản, cảnh báo, thông báo sớm động đất, cảnh báo sóng thần, thiên tai, sự cố trên biển, sử dụng công nghệ cao trên nền tảng công nghệ thông tin phục vụ nghiên cứu, tìm hiểu về biển, quản lý tài nguyên, bảo vệ môi trường, quản lý tổng hợp và thống nhất biển đảo.

Chỉ thị số 42-CT/TW ngày 24 tháng 03 năm 2020 của Ban Bí thư về việc tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác phòng ngừa, ứng phó, khắc phục hậu quả thiên tai.

Chú trọng ưu tiên đầu tư cho công tác nghiên cứu cơ bản về thiên tai, hệ thống dự báo KTTV, hệ thống theo dõi, giám sát thiên tai chuyên dùng chuẩn hóa và hiện đại. Tăng cường rà soát, cập nhật kịch bản BĐKH, nước biển dâng, dự báo dài hạn về thiên tai, nguồn nước, nhất là đối với các sông xuyên biên giới.

Phát triển khoa học công nghệ và thúc đẩy hợp tác quốc tế về phòng ngừa, ứng phó, khắc phục hậu quả thiên tai.

Xác định phát triển khoa học công nghệ là nhiệm vụ, giải pháp then chốt và hiệu quả trong phòng ngừa, ứng phó, khắc phục hậu quả thiên tai. Ưu tiên cho nghiên cứu, sản xuất, trang bị công nghệ quan trắc, theo dõi, giám sát, chỉ đạo điều hành, ứng phó với thiên tai. Tập trung ứng dụng công nghệ viễn thám, tin học, tự động hóa, vật liệu mới trong quản lý, khai thác, vận hành cơ sở dữ liệu, công cụ hỗ trợ chỉ đạo điều hành. Tiếp tục khuyến khích các doanh nghiệp, cơ quan nghiên cứu đầu tư cho khoa học công nghệ, hợp tác công - tư; có bộ phận nghiên cứu chuyên sâu, mô phỏng, chuyển giao, ứng dụng khoa học, công nghệ vào phòng ngừa, ứng phó, khắc phục hậu quả thiên tai.