Phản ánh về một số vướng mắc, mâu thuẫn liên quan tới pháp luật về đất đai

Tin tức - Sự kiện 06/08/2020

Triển khai thực hiện Quyết định số 209/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ ban hành Kế hoạch thực hiện rà soát văn bản quy phạm pháp luật thuộc lĩnh vực quản lý nhà nước của các bộ, cơ quan ngang bộ và phân công của Tổ công tác của Thủ tướng Chính phủ về rà soát văn bản quy phạm pháp luật, Bộ Tài nguyên và Môi trường đã ban hành kế hoạch để triển khai thực hiện. Hiện nay, qua rà soát, số lượng văn bản quy phạm pháp luật các lĩnh vực thuộc phạm vi quản lý của Bộ Tài nguyên và Môi trường có hơn 600 văn bản thuộc thẩm quyền ban hành hoặc trình cơ quan có thẩm quyền ban hành, do vậy, cần có thời gian để rà soát và xin ý kiến các cơ quan, tổ chức có liên quan. Liên quan tới lĩnh vực đất đai, bước đầu, Bộ đã tổng hợp được một số nhóm thông tin, phản ánh vướng mắc chính.

Mâu thuẫn giữa pháp luật về đất đai với pháp luật về quản lý, sử dụng tài sản công

Luật Đất đai quy định về chế độ sở hữu đất đai, quyền hạn và trách nhiệm của Nhà nước đại diện chủ sở hữu toàn dân về đất đai và thống nhất quản lý về đất đai, chế độ quản lý và sử dụng đất đai, quyền và nghĩa vụ của người sử dụng đất đối với đất đai thuộc lãnh thổ của Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Trong khi đó, Luật Quản lý, sử dụng tài sản công quy định về quản lý nhà nước đối với tài sản công; chế độ quản lý, sử dụng tài sản công; quyền và nghĩa vụ của các cơ quan, tổ chức, đơn vị, cá nhân trong việc quản lý, sử dụng tài sản công. Theo quy định của Hiến pháp thì tài sản công bao gồm cả đất đai, như vậy, cùng đối tượng là đất đai nhưng có 02 Luật điều chỉnh với các quy định về trách nhiệm quản lý nhà nước và các thẩm quyền chưa bảo đảm tính thống nhất.

Một số vướng mắc có liên quan đến quy định của Luật Lâm nghiệp

Luật Lâm nghiệp được Quốc hội thông qua ngày 15 tháng 11 năm 2017 (có hiệu lực thi hành từ ngày 01 tháng 01 năm 2019) quy định việc Nhà nước trao quyền sử dụng rừng, hình thức sử dụng rừng cho các đối tượng không thống nhất với hình thức trao quyền sử dụng đất rừng theo quy định của Luật Đất đai. Điều này gây khó khăn cho cơ quan có thẩm quyền khi thực hiện việc giao đất, giao rừng, cho thuê đất, cho thuê  rừng cho các đối tượng có nhu cầu.

Một số quy định của Luật Lâm nghiệp chưa thống nhất với quy định của Luật Đất đai hiện hành: (1) Khái niệm “cộng đồng dân cư” trong Luật Lâm nghiệp khác với quy định của Luật Đất đai, không ghi nhận cộng đồng dòng họ; (2) Luật Đất đai quy định Nhà nước cho người Việt Nam định cư ở nước ngoài, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài thuê đất rừng sản xuất để trồng rừng, trong khi, Luật Lâm nghiệp không quy định cho thuê các loại rừng đối với người Việt Nam định cư ở nước ngoài, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài; (3) Thẩm quyền quyết định chủ trương chuyển mục đích sử dụng rừng sang mục đích khác và chuyển mục đích đất rừng tương ứng đang có sự khác biệt; (4) Luật Đất đai hiện hành quy định chỉ có tổ chức kinh tế, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, hộ gia đình, cá nhân được Nhà nước cho thuê đất được kết hợp với kinh doanh cảnh quan, du lịch sinh thái - môi trường dưới tán rừng, trong khi, Luật Lâm nghiệp quy định cho phép các chủ rừng (kể cả chủ rừng được giao rừng không thu tiền) được đầu tư xây dựng công trình phục vụ du lịch sinh thái, nghỉ dưỡng trong rừng sản xuất, rừng phòng hộ và rừng đặc dụng.

Chưa thống nhất về việc chấm dứt dự án đầu tư và thu hồi đất của dự án đầu tư trong quy định của Luật Đầu tư và Luật Đất đai

Chưa thống nhất về việc chấm dứt dự án đầu tư và thu hồi đất của dự án đầu tư trong quy định của Luật Đầu tư và Luật Đất đai. Hiện nay, Luật Đất đai và Luật Đầu tư đang có điểm chưa thống nhất về việc chấm dứt dự án đầu tư và thu hồi đất của dự án đầu tư (được thống kê tại Bản rà soát quy định của pháp luật về đầu tư kinh doanh có mâu thuẫn, chồng chéo, thiếu rõ ràng được nêu trong Báo cáo của Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam kèm theo Công văn số 3051/UBPL14 ngày 11 tháng 3 năm 2020 của Ủy ban Pháp luật của Quốc hội).

Chưa rõ ràng giữa Luật Đầu tư và Luật Đất đai về thủ tục giao đất, chấp thuận chủ trương đầu tư

Theo quy định tại Điểm a khoản 1 Điều 32 của Luật Đầu tư thì dự án được Nhà nước giao đất, cho thuê đất không thông qua đấu giá phải xin chấp thuận chủ trương đầu tư của Ủy ban nhân dân cấp tỉnh. Khoản 3 Điều 118 của Luật Đất đai quy định: “3. Trường hợp đất đưa ra đấu giá quyền sử dụng đất theo quy định tại khoản 1 Điều này mà không có người tham gia hoặc trường hợp chỉ có một người đăng ký tham gia đấu giá hoặc đấu giá ít nhất 02 lần nhưng không thành thì Nhà nước thực hiện việc giao đất, cho thuê đất mà không phải đấu giá quyền sử dụng đất”. Như vậy, trường hợp quy định tại khoản 3 Điều 118 của Luật Đất đai phải quyết định chủ trương đầu tư theo quy định của Luật Đầu tư.